Mỗi dân tộc lại mang những nét văn hóa đặc trưng riêng, với những nét văn hóa phong tục để góp phần làm phong phú văn hóa Việt Nam. Do sự tác động nhất định về nguồn cội, môi trường sinh sống, cư trú, dân tộc Tày đã mang đến sự đa dạng, không thể trộn lẫn với những dân tộc khác trên mảnh đất hình chữ S. Cùng khám phá những điều mới mẻ để hiểu sâu hơn về dân tộc này nhé.
Đôi nét về dân tộc Tày
Dân tộc Tày còn có tên gọi khác là Thổ với tổng dân số khoảng gần 1,7 triệu người (thống kê 2009). Người Tày sử dụng ngôn ngữ địa phương Tày- Thái và có lịch sử hình thành rất sớm. Theo một số tài liệu họ đã xuất hiện từ nửa cuối thiên niên kỷ 1 trước công nguyên.
Hoạt động sản xuất tại đây cũng tương tự như người Kinh, có truyền thống lâu đời với ngành lúa nước. Từ lâu họ đã biết cách áp dụng nhiều phương pháp khác nhau như đắp máng, đào mương… Dân tộc Tày có tập quán đó là đập lúa ở ngoài đồng trước, thay vì gánh cả lúa mới gặt về nhà, họ dùng dậu để đem những hạt thóc mới thu được về nhà.
Ngoài việc trồng lúa nước, người Tày còn có tập tục trồng nhiều loại cây khác như hoa màu, ăn quả và tham gia chăn nuôi gia súc, gia cầm theo cách thả rông. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất cũng được quan tâm với những nghề thủ công, đặc biệt nhất và được nhiều người quan tâm đó là dệt thổ cẩm với những hoa văn chi tiết độc đáo.
Trang phục của người Tày như thế nào?
Trang phục truyền thống của dân tộc Tày được làm từ những sợi bông được trồng và tự dệt thủ công, những đường nét trang trí trên y phục rất ít. Họ thường mặc quần, váy với vần áo cánh khoác bên ngoài. Người Tày thường đội khăn có màu đen hoặc là màu chàm, có thể đội đầu hình tam giác hoặc đội theo hình chữ nhật với mục đích để vấn tóc lên.
Áo cổ truyền của phụ nữ Tày rất đơn giản, không trang trí với phần ống tay hẹp và cài cúc xiên ở bên nách phải. Ngoài chiếc áo bên ngoài dài đến chân, họ còn mặc thêm chiếc áo ngắn bên trong. Những chiếc quần, váy của họ cũng là màu đen hoặc chàm đặc trưng, trước đây họ dùng bông dệt vải, đến nay họ dùng vải lụa, vải chéo đen. Người ta thường dùng dây lưng để giữ chặt quần.
Về giày dép, phụ nữ Tày thường đi chân đất nên mỗi khi họ bước lên sàn đều phải rửa chân. Và đặc biệt trong những dịp đặc biệt như lễ, tết hoặc khi trời lạnh người Tày thường đi giày vải. Còn đối với nam giới, thường ăn mặc như người Kinh, đầu đội mũ nồi, cắt tóc ngắn.
Sinh hoạt thường ngày của người Tày như thế nào?
Sinh hoạt thường ngày của người Tày không quá cầu kỳ, theo đó, họ có nếp sống sinh hoạt như:
Về ăn uống của dân tộc Tày
Trước kia, người Tày sử dụng nếp là chính, hầu hết các gia đình trong nhà đều có chõ để đồ xôi. Những ngày lễ tết thường có nhiều bánh trái để dâng cúng tổ tiên như bánh gai, bánh trôi, bánh gio… Nổi bật nhất là món bánh nhân trứng kiến và cốm khiến nhiều du khách đến đây thích thú và mong muốn được thưởng thức.
Về cư trú, nơi ở của dân tộc Tày
Người Tày cư trú nhiều ở những vùng thung lũng, và sinh sống ở các tỉnh phía Đông Bắc nước ta. Điển hình là các tỉnh Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái… Họ thích sống tập trung thành bản làng đông đúc với nhau, và có những bản sống dày đặc với hàng trăm ngôi nhà san sát.
Nhà truyền thống dân tộc này có bộ sườn từ 4-7 hàng cột, có từ 2-4 mái lợp ngói theo kiểu tranh hoặc là lá cọ, xung quanh có thể được che với các liếp nữa hoặc là ván gỗ dựng lên. Về phương tiện vận chuyển, người Tày thường dùng túi vải để đeo lên vai hoặc dùng dậu để gánh những túi nhỏ. Để vận chuyển đồ nặng và cồng kềnh, thường dùng sức người, trâu kéo và các mảng chuyên chở.
Quan hệ xã hội dân tộc Tày
Quan hệ xã hội mang nét rất riêng của người Tày, đang còn mang tính chất phong kiến sơ khai, thế tập và phụ hệ. Người thống trị tồn tại trong xã hội xưa, dai dẳng đến đầu thế kỷ 20 được gọi là Quằng. Họ sở hữu toàn bộ đất đai, núi rừng… trong địa bàn sinh sống và có thể chi phối, bóc lột những người dân ở trên khu vực thống trị lao động không công.
Những phong tục điển hình trong văn hóa dân tộc Tày
Về văn hóa, người Tày cũng có những nét đặc trưng riêng so với những dân tộc khác đó là:
Cưới xin
Nam nữ dân tộc Tày có quyền được phép tự do yêu đương với nhau rất thoải mái. Nhưng họ có thể trở thành vợ chồng được hay không lại phụ thuộc vào 2 yếu tố đó là cha mẹ và “số mệnh”. Vậy nên, trong phong tục cưới hỏi có bước nhà trai sẽ sang xin lá số của nhà gái để tiến hành so xem có hợp hay không.
Cô dâu thường ở nhà bố mẹ đẻ đến đến khi sắp đến ngày sinh nở mới về bên nhà chồng. Cũng như những dân tộc khác, về sinh nở, người mẹ cũng cần phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau để đảm bảo mẹ tròn con vuông, đặc biệt là kiêng về tâm linh để tránh những vía độc hại vào nhà. Thường khi sinh con được 3 ngày gia đình sẽ tổ chức lễ cúng tẩy vía đồng thời lập thêm ban thờ bà mụ. Đầy tháng sẽ tổ chức lễ ăn mừng với cả nhà và đặt tên cho con.
Có thể bạn quan tâm:
- Phong tục tập quán Việt Nam độc đáo, phong phú và ý nghĩa
- Lễ hội Halloween – văn hóa không thể thiếu của phương Tây
Ma chay
Đám ma của người dân tộc Tày thường được tổ chức vô cùng linh đình, rất nhiều nghi lễ khác nhau được tổ chức, điều này nhằm mục đích báo hiếu. Sau khi diễn ra chôn cất được 3 năm, gia đình sẽ tổ chức thêm lễ mãn tang, để đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên, cũng như người Kinh 1 năm họ tổ chức cúng giỗ 1 lần.
Về nhà mới và thờ cúng
Tục lệ xây nhà của người dân tộc Tày cũng như người Kinh, trước khi dựng nhà cần phải đi xem hướng, xem tuổi, xem ngày để chọn được ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới, chủ gia đình sẽ phải giữ cho lửa cháy liên tục trong nhà đến tận sáng hôm sau để cua đuổi tà ma. Họ thường thờ cúng tổ tiên, thổ công, bà mụ và vua bếp.
Về Lễ Tết
Người Tày tổ chức nhiều hoạt động lễ tết khác nhau và mang nhiều ý nghĩa. Quan trọng nhất và được tổ chức linh đình, đó là ngày Tết Nguyên Đán và ngày rằm tháng 7. Vào ngày mùng 6/6 âm lịch, người dân nơi đây còn tổ chức một lễ gọi hồn trâu bò, sau vụ cày cấy cà cơm mới để cầu chúc cho mùa màng bội thu.
Học tập
Người dân tộc Tày sử dụng chữ nôm Tày được xây dựng theo mẫu tự tượng hình, và tương tự với chữ nôm Việt ngày xưa. Đến nay, họ dùng cả chữ Tày-Nùng theo cơ sở chữ La tinh và hiện nay được sử dụng trong các trường học có người Tày- Nùng cư trú.
Văn nghệ
Về đời sống văn hóa, văn nghệ, người dân tộc Tày có nhiều làn điệu đặc sắc như phuối rọi, vén eng, lượn… Đặc biệt, lượn là lối hát giao duyên rất phổ biến, thường sử dụng trong đám cưới, trong ngày hội tồng lồng…Bên cạnh đó, còn có múa rối gỗ hấp dẫn được tổ chức ở nhiều địa phương.
Như vậy, bài viết đã tổng hợp về dân tộc Tày cũng như văn hóa đời sống, nghệ thuật của dân tộc. Có thể thấy, đây là những nét đặc trưng càng tô điểm cho văn hóa dân tộc Việt Nam.